Chế độ chính trị Nhà Tống

Tổng quan

Vào sơ kỳ, thể chế Bắc Tống đại thể vẫn kế tục chế độ chính trị triều Đường.

Tuy nhiên, Tể tướng không còn do các quan đứng đầu Tam tỉnh đảm nhiệm, mà là Đồng trung thư môn hạ bình chương sự (同中書門下平章事), sung nhiệm Thượng thư tả hữu thừa (尚書左右丞) đến Thị lang lục bộ trở lên. Thông thường đặt hai Tể tướng, có khi đặt một hoặc ba tể tướng, Tể tướng còn kiêm chức Quán, Điện Đại học sĩ. Triều đình còn đặt thêm Tham tri chính sự (參知政事) làm Phó tể tướng, cho sung nhiệm từ Trung thư xá nhân (中書舍人) đến Thượng thư lục bộ; thường thay đổi, thường đặt hai người, có khi đặt một người, ba hoặc bốn người.

Trung ương chính quyền thời Tống phân hóa ba nhánh chính:

Thời Tống, quyền của Tể tướng bị thu hẹp mạnh, chỉ phụ trách chức năng hành chính. Quyền lực của Tam ty, Tể chấpXu mật sứ chế ngự lẫn nhau, chính vì vậy đã giảm bớt quyền lực độc quyền trước đây của Tể tướng, ngược lại còn tăng cường hoàng quyền, một thể chế quân chủ tập quyền đúng nghĩa. Ngoài Ngự sử đài, triều Tống còn đặt thêm Gián việnTrí gián quan, đều là các cơ cấu giám sát, phụ trách sự tình tra hỏi.

Đầu thời Bắc Tống, Tể tướng chủ quản dân chính, Xu mật sứ chủ quản quân chính, Tam ty sứ chủ quản tài chính. Sau "Nguyên Phong quan chế cải cách thời Tống Thần Tông, Tể tướng trên thực tế kiêm quản tài chính. Thời Nam Tống, tể tướng còn kiêm nhiệm Xu mật sứ, kiêm quản quân chính. Điều này khiến Tể tướng lại khống chế đại quyền dân chính, tài chính và quân chính.

Quan chế trung ương

Tam tỉnh Lục bộ của triều Tống một số được lập mới, một số được thay thế chức quyền. Như Thẩm quan viện thay thế thi hành chức quyền thi khảo quan chức triều đình trung ương vốn thuộc về Lại bộ; Thái thường lễ việnLễ nghi viện thay thế thi hành quyền lễ nghi của Lễ bộ; Tam ty thay thế thi hành đại bộ phận chức quyền của Hộ bộCông bộ; Thẩm hình viện thay thế thi hành công việc của Hình bộ trong việc phúc thẩm án kiện do Đại lý tự xác định. Đến thời "Nguyên Phong quan chế cải cách", Tam tỉnh thay thế Trung thư môn hạ, tại lục bộ thiết lập Thượng thư và Thị lang, chủ quản sự vụ các bộ; còn Tam tỉnh lục bộ chỉ thi hành chức quyền tương ứng[tham 42].

Trung thư môn hạ (中書門下) đặt trong cung cấm, là cơ quan hành chính tối cao, Tể tướng và phó tể tướng xử lý chính sự tập thể. Tể tướng gọi là Đồng trung thư môn hạ bình chương sự (同中書門下平章事), phó tể tướng gọi là Tham tri chính sự (參知政事). Việc đặt chức phó tể tướng là nhắm phân tán quyền lực của Tể tướng, cũng như mở rộng năng lực xử lý chính vụ, đây là một đặc sắc trong chính trị thời Tống.[tham 42] Thời "Nguyên Phong quan chế cải cách", triều đình đem Trung thư môn hạ đổi thành Môn hạ tỉnh, Trung thư tỉnhThượng thư tỉnh; cho các Thượng thư tả, hữu bộc xạ kiêm Môn hạ, Trung thư thị lang làm Tể tướng; đặt lại tại mỗi tỉnh các Môn hạ, Trung thư thị lang; các Thượng thư tả, hữu thừa làm phó tể tướng. Thời Tống Huy Tông, Sái Kinh xưng là Thái sư, thống lĩnh sự vụ của Tam tỉnh, đổi Thượng thư tả, hữu bộc xạ thành Thái tể, Thiếu tể, cho làm Tể tướng. Thời Tống Cao Tông, nhằm tập trung chính vụ để ứng phó quân vụ cấp bách, triều đình đem Tam tỉnh hợp làm một, đổi Tả, hữu bộc xạ thành Tả, hữu thừa tướng. Thời Tống Triết Tông, đặt chức Bình chương quân quốc trọng sự (平章軍國重事) hoặc Đồng Bình chương quân quốc sự (同平章軍國事), nhằm đặt "lão thần thạc đức" ở vị trí trên tể tướng, vài ngày đến chầu một lần. Thời Tống Ninh Tông, Hàn Thác Trụ nhậm chức "Bình chương quân quốc sự", ba ngày đến chầu một lần, Tể tướng không còn chưởng quản ấn tín. Những năm cuối Nam Tống, Giả Tự Đạo chuyên quyền, nhậm chức "Bình chương quân quốc trọng sự"; Tả hữu thừa tướng trên thực tế có địa vị như phó tể tướng.[tham 42]

Xu mật viện (樞密院) là cơ quan tối cao về quân chính toàn quốc, quan đứng đầu là Xu mật sứ (密院事) hoặc Tri xu mật viện sự (知樞密院事), sung nhiệm chức vụ từ Gián nghị đại phu đến Thượng thư lục bộ; quan cấp phó là Xu mật phó sư (樞密副使) hoặc Đồng tri xu mật viện sự (同知樞密院事), sung nhiệm chức vụ từ Khởi cư xá nhân đến Thượng thư tả, hữu thừa. Người ít thâm niên gọi là "Thiêm thư xu mật viện sự", "Đồng thiêm thư xu mật viện sự", không thường đặt. Nhằm đề phòng cục diện phiên trấn cát cứ thời Đường tái diễn, những chức vụ này đại đa số do quan văn đảm nhiệm. Xu mật viện chưởng quản quyền lực điều độ quân mã toàn quốc, và quản lý, huấn luyện, phòng ngự, thăng chức, thưởng phạt trong cấm quân toàn quốc đều do "tam nha" liên hiệp quản lý. Tam nha chính là Điện tiền đô chỉ huy ty, Thị vệ mã quân đốc chỉ huy sứ tyThị vệ bộ quân đốc chỉ huy sứ ty. Quan đứng đầu Xu mật viện cùng với Tham tri chính sự, Môn hạ thị lang, Trung thư thị lang, Thượng thư tả, hữu thừa tướng gọi chung là Chấp chính (執政). Tể tướng và quan chấp chính gọi chung là Tể chấp (宰執)[tham 43].

Tam ty (三司) là cơ quan tối cao chủ quản tài chính, tức ba cơ quan là Diêm thiết bộ, Độ chi bộ cùng bộ Hộ. Quan đứng đầu gọi là Tam ty sứ (三司使), sung nhiệm chức vụ từ Ngũ phẩm trở lên và Tri chế cáo, tạp học sĩ, học sĩ. Người cấp phó gọi là Tam ty phó sứ (三司副使), sung nhiệm chức vụ từ Viên ngoại lang trở lên. Trong "Nguyên Phong quan chế cải cách" thời Tống Thần Tông, chức quyền của Tam ti được quy về Hộ bộ và Công bộ. Nam Tống từng đặt thêm Tổng lĩnh sở (總領所), phụ trách cung ứng tiền lương các quân một số lộ hoặc một lộ, đồng thời tham dự quân chính. Người đứng đầu cơ quan này gọi là "Tổng lĩnh mỗ lộ tài phú quân mã tiền lương", giản xưng Tổng lĩnh (總領)[tham 44]

Ngự sử đài (御史台) chuyên quản giám sát, quan đứng đầu gọi là Ngự sử trung thừa (御史中丞), người cấp phó gọi là Ngự sử tri tạp sự (御史知雜事), chủ quản kiểm soát bá quan, chỉnh đốn kỷ cương. Quan của Ngự sử đài có quyền hạch hỏi, có thể trình tấu ngôn sự, bình luận triều chính, hạch hỏi quan viên, còn được phép luận sự phong văn. Dưới Ngự sử đài đặt ba viện: Đài viện (臺院), Điện viện (殿院), Sát viện (察院); bên dưới tiếp tục đặt Thị ngự sử (侍御史), Điện trung thị ngự sử (殿中侍御史), Giám sát ngự sử (監察御史). Gián viện là cơ cấu chuyên quản việc khuyến gián. Thời Tống Nhân Tông mới đặt riêng viện, quan đứng đầu gọi là Tri gián viện sự (知諫院事) hoặc Tả Hữu Gián nghị đại phu (諫議大夫), phàm là khuyết điểm triều chính, bất kể quyền thần nào, quan phủ các cấp làm việc sai trái, đều có thể gián chính. Quan của Đài viện và Gián viện đều có trách nhiệm là tiến gián, hạch hỏi, chức quyền vốn không có sai biệt nhiều, tình hình này khiến thời sau hợp nhất Đài viện và Gián viện.[tham 45]

Cuối cùng, cơ cấu khởi thảo chế cáo cho hoàng đế, quốc thư, hoặc văn thư sử dụng trong cung đình là Hàn lâm học sĩ viện (翰林學士院), đặt các chức Hàn lâm học sĩ (翰林學士); Hàn lâm học sĩ thừa chỉ (翰林學士承旨) hay Hàn lâm thị độc học sĩ (翰林侍讀學士) và Trực học sĩ viện (直學士院). Hàn lâm học sĩ và Trung thư xá nhân hoặc Tri chế cáo phân quản "nội chế" và "ngoại chế", gọi chung là Lưỡng chế, các Hàn lâm học sĩ còn thị phụng hoàng đế, đảm đương vai trò cố vấn.

Đầu thời Tống, cơ cấu tư pháp tối cao là Đại lý tự và Hình bộ. Tống Thái Tông đặt Thẩm hình viện (審刑院), quan đứng đầu gọi là Thẩm hình viện sự (審刑院事). Các địa phương tấu án trước tiên là qua Đại lý tự phán quyết, báo cáo Thẩm hình viện phức tra, viết ra bản thảo tấu, trình lên Trung thư. Trung thư đích thân tấu để hoàng đế luận quyết, đến khi Tống Thần Tông cải cách quan chế thì Thẩm hình viện nhập vào Hình bộ.[tham 46]

Chế độ quản lý quan viên

Thời Tống, thực hành chế độ phân ly quan, chức và sai khiển. Đầu thời Tống, tận dụng các quan danh tam tỉnh lục bộ triều Đường tổ hợp thành cấp quan, chỉ dùng để định phẩm cấp, bổng lộc, chương phục và thăng cấp, do đó còn gọi là "giai quan" hoặc "ký lộc quan". Thời "Nguyên Phong quan chế cải cách" Tống Thần Tông, văn quan (kinh triều quan) định thành 25 bậc, thời Tống Huy Tông tăng thành 37 bậc (bao gồm tuyển nhân), còn cải định võ quan tổng cộng 52 bậc. Sai khiển là chỉ chức vụ thực tế mà quan viên đảm nhiệm, tức "chức vụ quan". Đầu thời Bắc Tống, quan phẩm kế tục chế độ triều Đường, văn quan tổng cộng có 9 phẩm, có chính, tòng; từ chính tứ phẩm trở xuống, lại phân thành thượng và hạ, tổng cộng có 30 đẳng. Tuy nhiên, nhiều quan phẩm và quan chức không tương xứng. "Nguyên Phong quan chế cải cách" chuyển đổi sang gắn chức danh với trách nhiệm thực, giảm thiểu đẳng cấp quan phẩm, cải thành cửu phẩm chính, tòng, tức 18 cấp. Triều đình đối với quan viên các cấp chế định các chế độ ma khám (khảo sát công lao lỗi lầm), tự thiên (thăng chức theo công lao), ấm bổ (bổ nhiệm theo công lao của tổ tiên). Đối với quan viên trung và thượng cấp, họ được đãi ngộ khá tốt, có bổng lộc, chức điền, từ lộc, ân thưởng. Sau thời Tống Thần Tông, một số quan viên hạ đài hoặc sắp hạ đài còn được trao cho hoặc tự thỉnh đảm nhiệm các chức vụ thanh nhàn như "cung quan quan", "giám nhạc miếu", ngồi lĩnh "từ lộc". Ngoài ra, các loại ban thưởng nhất thời của triều đình cũng trở thành một khoản thu nhập kinh tế trọng yếu của quan viên. Việc phân ly quan, chức và sai khiển khiến xuất hiện số lượng lớn quan viên dư thừa[tham 47]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà Tống http://www.confucianism.com.cn/html/wenxue/1348450... http://www.cenet.org.cn/cn/CEAC/2005in/jjs008.doc http://www.art-and-archaeology.com/timelines/china... http://books.google.com/books?id=BxH0PqdGTVUC&pg=R... http://www.lunwentianxia.com/product.free.4452120.... http://www.xabusiness.com/china-resources/song-lia... http://www.artsmia.org/art-of-asia/history/dynasty... http://www.bcps.org/offices/lis/models/chinahist/s... http://www.chinaheritagequarterly.org/features.php... //dx.doi.org/10.1163%2F156852001753731033